Nói đến Tây Bắc là hình dung về một miền núi non trùng điệp với những nếp nhà chon von bên sườn núi, những thửa ruộng bậc thang như vân tay, những con người hồn hậu, chất phác trong bộ trang phục đầy sắc màu thổ cẩm…
Miền Tây Bắc còn là xứ sở của hoa ban nở trắng rừng, miền đất của những thiên tình sử, quê hương của những vũ điệu dân gian sôi động, say đắm con tim của khách du lịch đến nơi đây…
Ấn tượng từ những điệu múa dân gian
Bên cạnh văn hóa trang phục (thổ cẩm), văn hóa cư trú, văn hóa ẩm thực và dân ca… người Việt Nam nói chung và đồng bào các dân tộc Tây Bắc nói riêng từ xa xưa đã rất ưa thích múa. Những điệu múa dân gian vùng Tây Bắc vừa mang đậm bản sắc văn hóa các tộc người, lại vừa thể hiện tính nghệ thuật cao qua từng bước đi, điệu nhảy. Trong mỗi điệu múa còn chứa đựng tâm hồn, tình cảm và cả cốt cách của người dân miền núi. Nổi bật, có múa xoè Tây Bắc của người Thái Điện Biên, Lai Châu
Nói đến nghệ thuật dân gian của người Thái không thể không nói đến điệu múa xòe đặc trưng. Những cuộc tụ họp đông vui có thể múa xoè quanh đống lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo của già, trẻ, trai, gái trong tiếng chiêng, tiếng trống rộn ràng. Các già làng cho biết có tới 32 điệu xoè, nay chỉ còn giữ được một số điệu. Có 2 loại xòe là xòe vòng và xòe điệu. Xòe vòng sôi nổi bao nhiêu thì xòe điệu nhẹ nhàng, tinh tế bấy nhiêu. Trong xòe điệu còn có xòe nón rất duyên dáng và hấp dẫn… Các cô gái Thái trong điệu xoè nón với chiếc nón trong tay lúc chạm vào lúc mở ra từ từ từng cánh như bông hoa trắng muốt. Có lúc nón lao nhanh trên đầu, lúc lại nhẹ nhàng quay trên vai, nghiêng nghiêng bên má, khi e thẹn xoay tròn trước ngực rồi lại dập dờn như cánh bướm mùa xuân. Bắt nguồn từ cuộc sống, những điệu múa dân gian của người Thái Tây Bắc sống mãi với thời gian, là món ăn tinh thần không thể thiếu. Để rồi qua mỗi điệu múa, đêm xòe, mỗi người thêm yêu đời, yêu người, tự tin bước vào một ngày mới tốt đẹp hơn. Cũng vì vậy, các điệu múa Thái đã trở thành vốn văn hóa quý báu, là niềm tự hào của người Thái Tây Bắc và dân tộc Việt Nam.
Múa sạp là điệu múa dân gian đặc sắc của dân tộc Mường trong những dịp vui, trong lễ hội xuân, khởi nguyên từ vùng người Mường Hòa Bình, Sơn La, ngày nay đã phát triển rộng ra nhiều dân tộc khác. Đạo cụ cần thiết cho múa sạp phải có hai cây tre to, thẳng và dài làm sạp cái và nhiều cặp sạp con bằng tre nhỏ hay nứa. Khi múa, người ta đặt hai sạp cái để cách nhau vừa đủ gác hai đầu các cây sạp con, từng cây sạp con đặt song song, cách đều nhau chừng hai gang tay tạo thành dàn sạp. Người múa chia ra một tốp đập sạp và một tốp múa, mỗi tốp có thể từ vài cặp trai gái đến nhiều cặp, càng nhiều, đội hình càng phong phú sinh động. Tốp đập sạp: mỗi đôi trai gái ngồi hai đầu một cặp sạp con và gõ theo nhịp 4/4, cứ ba lần gõ sạp con lên sạp cái thì một lần gõ hai sạp con vào nhau tạo ra âm thanh, tiết tấu cho múa, vừa gõ vừa hát. Tốp múa: lần lượt từng cặp trai gái nhảy vào dàn sạp, mỗi người cầm một chiếc khăn màu dài, khi tung lên, khi uốn lượn quanh người. Động tác khi lướt nhẹ nhàng, uyển chuyển, lúc dồn dập quay, nhảy, bay trên sạp; đội hình uốn lượn quấn quýt, biến đổi ngang, dọc, chéo, tròn, tất cả đều diễn ra trên dàn sạp và phải đúng nhịp, làm sao khi hai sạp con chập vào nhau thì không bị kẹp chân. Cứ hễ hai tốp gõ sạp và nhảy múa thay nhau trong tiếng cồng, tiếng trống nhịp nhàng, sôi động. Cuộc vui kéo dài không biết chán, cuốn hút mọi người hào hứng, say sưa.
Còn múa khèn là “sản phẩm” đặc trưng của người Mông, trong đó biểu hiện đậm đặc nhất là ở người Mông Sa Pa. Ban đầu, múa khèn chỉ là hoạt động trong tang ma, 6 ống khèn tượng trưng cho tiếng khóc của 6 anh em tiếc thương cha mẹ. Nhưng sau đó, vì tính nghệ thuật rất cao, các động tác biểu hiện tinh thần thượng võ và phong tục của người Mông là luôn trọng những chàng trai thổi khèn giỏi, múa khèn hay, nên múa khèn được đưa vào thành một nội dung thi tài giữa các chàng trai trong các cuộc vui, ngày hội, hoặc phiên chợ xuân. Múa khèn biểu hiện tính cách người trai mạnh mẽ, dũng cảm, nhanh nhẹn, khéo léo, tài hoa với nhiều yếu tố nghệ thuật và kỹ thuật cao, phải vừa thổi khèn vừa múa mà không được để khèn ngắt quãng. Động tác múa khèn phong phú, đa dạng. Người ta thống kê được 33 động tác, tổ hợp múa khèn. Trước đây, có bài khèn gốc phải được múa trên bãi đóng 7 chiếc cọc cao 50cm, người múa hết bài không được rơi xuống đất. Cây khèn vừa là nhạc cụ độc đáo, gồm nhiều ống trúc nhỏ ghép lại, có thể thổi hơi ra, có thể hít hơi vào; khèn vừa là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum người và các thế quay, nhảy… Tiếng khèn có thể một lúc phát ra đa âm, nhiều bè, vang xa trầm hùng như tiếng của gió ngàn, của suối reo, chim kêu, vượn hót, tiết tấu theo nhịp 4/4 hoặc 2/4 thích hợp với các động tác múa khèn. Ngày nay, múa khèn Mông với các vũ điệu đẹp, tài hoa, dũng mãnh và trữ tình, có sức sống mãnh liệt, lâu bền của văn hoá Mông, được yêu thích, ngưỡng mộ, nhất là các du khách trong nước và nước ngoài khi đến với Sa Pa, đều háo hức tìm xem múa khèn.
Các dân tộc khác ở Tây Bắc cũng có những điệu múa dân gian riêng, như điệu tăng bu (dỗ ống) của dân tộc La Ha với những cô gái nhún nhảy mềm mại uyển chuyển trong tiếng đệm rộn ràng của một dàn ống tre đục rỗng mắt, hay những vũ điệu đầy sức hấp dẫn với các động tác lắc mông, lượn eo uyển chuyển của dân tộc Khơ Mú, Xinh Mun thật sinh động và quyến rũ, hay điệu múa chuông nổi tiếng của dân tộc Dao. Điệu múa của dân tộc Lự với nhịp gõ của chiếc ống nứa cũng luôn hút hồn khách du lịch qua miền Tây Bắc
Tây Bắc luôn vẫy gọi
Nói đến Tây Bắc, chẳng ai không biết tới một “Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Ở thành phố Điện Biên, bạn đừng quên đi tham quan hầm Đờ Cát, cầu Mường Thanh, di tích đồi A1. Bạn cũng đừng quên viếng thăm nghĩa trang anh hùng liệt sĩ Điện Biên Phủ, thắp một nén hương tưởng niệm những người đã ngã xuống, sau đó bạn hãy thong dong tới Bảo tàng Điện Biên Phủ, nơi đây trưng bày những hiện vật rất phong phú trong cuộc kháng chiến, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên. Bạn cũng đừng quên đi thăm khu rừng nguyên sinh Mường Phăng, nơi đặt sở chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lắng nghe những câu chuyện xung quanh chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ở Lai Châu, bạn có thể tham quan các di tích lịch sử văn hóa, như bia Lê Lợi, thuộc xã Lê Lợi (huyện Sìn Hồ); di tích kiến trúc nghệ thuật đền Nàng Han, thuộc xã Mường So và xã Khổng Lào (huyện Phong Thổ), di tích lịch sử đồn Mường Tè.
Ở Yên Bái, bạn có thể tham quan di tích đồn Nghĩa Lộ, có thể vượt đèo Khau Phạ để tham quan cuộc sống của hậu duệ những “chiến binh mây mù” trên Sừng trời này; ruộng bậc thang Mù Căng Chải cũng là một điểm đến không thể bỏ qua, nhất là khi “tác phẩm” về sự sáng tạo trong cuộc sống của đồng bào Mông là ruộng bậc thang đã được tôn vinh.
Còn ở Lào Cai, tỉnh vẫn được coi là hình mẫu trong việc phát huy các tiềm năng, thế mạnh để phát triển kinh tế du lịch, thì có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa, hiện là điểm đến không thể thiếu trong hành trình du lịch “Về cội nguồn”. Ngay trong thành phố, có di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia là Đền Thượng và Đền Mẫu, được coi là cột mốc văn hóa Việt Nam ngay địa đầu biên ải. Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Bảo Yên… là các huyện đang làm rất tốt việc tôn tạo, xây dựng các tuyến, điểm du lịch từ di tích lịch sử văn hóa để phục vụ khách du lịch, phát triển kinh tế du lịch.
Vậy là, qua miền Tây Bắc hôm nay, bạn có thể thưởng thức đầy đủ hương thơm trái ngọt, đặc sản ẩm thực, cùng với sinh thái trong lành, với điều kiện di chuyển, ăn nghỉ rất thuận lợi. Bạn có thể tự tìm cho mình một hành trình theo hướng tìm hiểu, khám phá nét văn hóa dân gian đặc sắc, hoặc tham quan những di tích lịch sử văn hóa, thỏa mãn nhu cầu văn hóa tâm linh ở những ngôi đền, chùa đã trải qua bao thế kỷ…
Tây Bắc vẫn luôn vẫy gọi khách du lịch bốn phương.
Nguồn: Báo Lào Cai