Vũng Tàu là thành phố thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam.
– Phân chia hành chính: gồm 16 phường, và 1 xã.
– Diện tích địa lý: 140 km²
– Dân số 2011 tổng cộng: 322.873 người
– Mật độ: 2.306 người/km²
Bãi biển Hồ Cốc
Biển Hồ Cốc khá đẹp, là một vùng hoang sơ mới được khai thác, nước biển trong xanh, khu bãi tắm rộng, độ dốc thoai thoải và đặc biệt đẹp thơ mộng nhờ các tảng đá nằm ngay trong bãi tắm tạo nên những đợt sóng biển tung bọt trắng xoá. Với vẻ nên thơ của một vùng biển hoang vắng nên du khách ví bãi biển Hồ Cốc đẹp như một thiếu nữ trinh nguyên.
Tắm biển ở đây thật thú vị, khách du lịch sẽ thấy mình như lạc giữa thiên nhiên trong làn nước xanh thẳm để thưởng thức những gì còn hoang sơ của núi rừng và biển cả.
Bạch Dinh
Bạch Dinh được gọi là Villa Blanche theo tên con gái yêu của Paul Doumer. Nghĩa tiếng Việt của từ này lại trùng với dáng sắc bên ngoài của nó nên dân địa phương quen gọi là Bạch Dinh, tức là Biệt thự trắng. Sau đó nhiều đời toàn quyền Đông Dương vẫn thích dùng Bạch Dinh làm nơi giải trí nên được gọi là Dinh toàn quyền. Dưới thời Mỹ, Bạch Dinh cũng là nơi an nghỉ và hội họp của tổng thống và các tướng lĩnh Sài Gòn. đây cũng chính là nơi giam lỏng vua Thành Thái (từ 1909-1910), một vị vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp.
Bạch Dinh nằm ở phía nam núi Lớn, trên pháo đài Phước Thắng cổ xưa, cao gần 30m so với mực nước biển. Từ tiền sảnh Bạch Dinh nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác như đang ở tầng lầu của một cao ốc xây dựng trên mặt nước biển, có thể dõi tầm mắt bao quát cả trung tâm thành phố Vũng Tàu.
Có hai lối lên Bạch Dinh. Một đường uốn quanh chạy dưới rừng cây giá tỵ, dành cho xe hơi lên tới tiền sảnh. Một đường đi bộ qua 146 bậc tam cấp cổ xưa, kín đáo nằm giữa hai hàng sứ cao niên. Bạch Dinh cao 19m, có ba tầng, mang đậm sắc thái kiến trúc của Pháp thời cuối thế kỷ 19. Tầng hầm dùng cho việc nấu nướng. Tầng trệt dùng làm khánh tiết. Tại đây còn bài trí những hiện vật cổ xưa dùng để trang trí nội thất như: Song bình Bách điểu chầu phụng, bộ tràng kỷ Hoàng Gia ghi niên đại Khải định năm 1921, cặp ngà voi Châu Phi dài 170cm, bộ tam đa ngũ thái Phúc – Lộc – Thọ. Tầng lầu thoáng đạt dành cho việc nghỉ ngơi. Dạo quanh Bạch Dinh, du khách không khỏi ngạc nhiên về tám bức tượng đá bán thân gắn trên một đường thẳng bao quanh ba mặt tường chính của toà nhà. Hầu hết tượng đều mang phong cách của nghệ thuật Hy Lạp cổ đại. Lúc bình minh hay khi chiều xế bóng, những bức tượng ký hoạ chân dung đối xứng trên nền chim công lấp lánh, trông thật tráng lệ và kỳ diệu. Với tất cả sự quyến rũ đó, Bạch Dinh không chỉ thoả mãn cho Paul Doumer mà các đời toàn quyền Đông Dương vẫn thích dùng Bạch Dinh làm nơi nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng.
Hiện nay, Bạch Dinh được dùng làm nhà bảo tàng, trưng bày các chuyên đề như: đồ gốm thời Khang Hy vớt được từ xác tàu cổ đắm tại khu vực Hòn Cau – Côn Đảo, súng thần công cùng nhiều hiện vật có giá trị khác được tìm thấy qua các đợt khai quật khảo cổ ở Bà Rịa – Vũng Tàu… đến Bạch Dinh, du khách có thể tận hưởng không khí trong lành của biển, vẻ đẹp kiều diễm của Bạch Dinh hòa lẫn trong thiên nhiên cây cỏ, và được tận mắt thưởng ngoạn những cổ vật tiêu biểu, quý hiếm.
Tượng chúa Jesus
Trong lòng tượng có một cầu thang xoáy trôn ốc đi từ bệ lên cổ tượng gồm 133 bậc. Hai bên vai tượng được thiết kế như hai cái ban công, mỗi bên có đủ chỗ cho khoảng 6 người đứng ngắm cảnh thành phố Vũng Tàu.
Suối Tiên
Để lên thượng nguồn Suối Tiên du khách phải vượt qua 600m đường rừng quanh co, phong cảnh hữu tình và rất yên tĩnh. Tương truyền xưa kia nơi đây cây cối rậm rạp, núi rừng hoang vắng và vào những đêm trăng sáng các nàng tiên trên trời xuống hạ giới để du ngoạn. Qua dòng suối trong xanh này các nàng tiên rủ nhau tắm mát rồi mới trở về trời. Hiện nay ở phía mỏm đá của núi Dinh có dấu chân thật xinh xắn in thành ngấn trên đá gọi là dấu chân tiên. Có lẽ người xưa yêu cảnh trí nơi đây, một vùng non nước kỳ vĩ, sơn thủy hữu tình nên đã đặt cho nó một cái tên thật huyền ảo: Suối Tiên.
Từ độ cao hàng trăm mét, theo dốc thoải dần về phía đông, Suối Tiên ào ạt đổ xuống hai bờ núi đá, chảy quanh co, tưới mát cho những cánh đồng trù phú trước khi hoà vào dòng sông Thị Vải. Suối Tiên còn lưu giữ vẻ đẹp tự nhiên, hoang sơ mà kỳ thú, ấn tượng với bất kỳ ai lần đầu đặt chân tới đây. Dọc hai bên bờ suối có những thạch bàn phẳng lì nằm nghiêng nghiêng khá rộng, du khách có thể ngồi hoặc ngả lưng khi dừng chân ngắm cảnh. Những mỏm đá mang nhiều hình thù độc đáo: mỏm thì giống hình hai mẹ con ngồi trò chuyện, mỏm thì giống chú voi con, mỏm thì giống một cụ già suy tư, mỏm thì giống hình đôi gà chọi, cá sấu, chim muông…đang dùa giỡn với ban mai. Bên cạnh đó là những chùm hoa cương bám đầy địa y xen lẫn rêu phong có lẽ đã ngủ vùi ở chốn này từ ngàn năm nay.
Đặc biệt, đứng ở bất kỳ vị trí nào du khách cũng nghe được tiếng suối ì ầm tuôn chảy từ đỉnh núi đổ xuống, tạo thành những giếng trời khá sâu, nước trong xanh có thể nhìn rõ từng viên sỏi trắng muốt dưới đáy. Nước chảy xối xả, tung bọt trắng ngần, hơi nước bay vào không gian những hạt bụi li ti tạo nên cảm giác thật dễ chịu. Mùa mưa suối cuộn mình tung bọt trắng xoá, nhưng mùa khô dòng suối hiền hoà trở lại cho các bạn trẻ bơi lội tung tăng.
Du lịch Suối Tiên, nếu còn thời gian du khách nên theo con đường mòn đến những ngôi chùa nhỏ gần đấy để nghe tiếng chuông chùa thong thả ngân nga thật bình yên, để thưởng thức khói hương trầm quyện với hương của hoa huệ, hoa ngọc lan thơm ngát…gợi lên vẻ u tịnh của chốn thiền viên giữa vùng sơn cước. Đó cũng là một trong những ấn tượng rất riêng của thắng cảnh Suối Tiên.
Khu thắng cảnh Suối Tiên xứng đáng là địa điểm lý tưởng cho những cuộc tham quan, dã ngoại, tìm về thiên nhiên khiến du khách quên đi những giờ phút làm việc căng thẳng.
Linh Sơn Cổ Tự
Lúc đầu chùa được xây dựng trên triền núi Nhỏ nhưng đến năm 1919 khu vực này bị thực dân Pháp chiếm dụng để xây biệt thự cho hoa tiêu Pháp. Ngay sau đó một ngôi chùa khác đã được xây dựng và tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Trong chánh điện có thờ một tượng Phật cao 1,2m bằng đá thếp vàng được điêu khắc rất khéo léo tạo nên vẻ từ bi và sống động trên nét mặt của đức Phật.
Truyền thuyết kể lại rằng cách đây hơn một trăm năm có đoàn ghe chài từ miền Trung vào đánh cá ở bãi Trước. Trong khi đi kiếm củi ở núi Lớn tình cờ họ phát hiện hai pho tượng Phật bằng đá nằm vùi dưới đất trên sườn núi gần bãi Dâu. Họ cùng nhau đào lên rồi chờ đến hôm sau làm lễ xin đem về. Dân địa phương biết tin vội kéo đến xem và cho rằng đó là di tích lịch sử của địa phương nên cương quyết đòi giữ lại. Nhóm dân chài miền Trung năn nỉ mãi mới lấy được pho tượng nhỏ đem đi. Pho tượng lớn còn lại được dân chài rước về thờ, chính là pho tượng hiện nay ở chùa Linh Sơn Cổ Tự.
Khu di tích núi Dinh
Giải thích về tên gọi núi Dinh, người dân địa phương kể: Do khí hậu trên núi rất mát mẻ nên trước đây toàn quyền Pháp có xây dinh thự để nghỉ mát vì vậy sau này người ta quen gọi núi Dinh. Cũng có người cho rằng sở dĩ núi được gọi tên núi Dinh là để tưởng nhớ công ơn người đã có công khai phá vùng đất Bà Rịa – Vũng Tàu là ông Nguyễn Văn Dinh.
Núi Dinh có độ cao khoảng 500m với tổng diện tích toàn khu vực gần 60km² được xem là ngọn núi cao và độc đáo nhất của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ trên đỉnh núi Dinh, dòng Suối Tiên tuyệt đẹp uốn lượn, lúc là những thác nước nhỏ róc rách, lúc phình to thành hồ nước phẳng lặng, trong xanh. Đi ngược dòng, cảnh vật càng lên cao càng đẹp như muốn lôi cuốn bước chân du khách lên cao, lên cao mãi. Bờ suối có khi là thảm cỏ mượt mà xanh, có khi là cây cổ thụ tỏa bóng xum xuê với bộ rễ chằng chịt, có khi là vạt hoa rừng trinh nguyên soi mình bên suối, có khi là những tảng đá hình thù kỳ lạ như tảng đá hình đầu rắn, mẹ bồng con, hổ phục… đứng giữa mênh mông núi đồi, người ta bỗng nhiên thấy mình nhỏ bé, bỗng nhiên có cảm giác choáng ngợp, ngất ngây đến diệu kỳ.
Ẩn hiện theo sườn núi là những ngôi chùa, trong đó phải kể đến nhiều ngôi chùa có giá trị về tôn giáo và nghệ thuật như chùa Hang, chùa đại Tùng Lâm, chùa Tây Phương… Ngồi dưới bóng mát ven suối, nghe tiếng nước chảy róc rách, tiếng chim rừng líu lo, tiếng kinh, tiếng chuông mõ văng vẳng vọng lại, tâm hồn du khách sẽ lâng lâng một cảm giác thư thái, bình an đến lạ kỳ.
Khu bao tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước Bửu
Địa hình rừng Bình Châu-Phước Bửu tương đối bằng phẳng. Ở phía tây có một vài ngọn núi cao từ 100 đến 150m và những quả đồi thoai thoải xen lẫn với những bàu nước ngọt tự nhiên. Các bàu, hồ nước ngọt hoang sơ ven biển như hồ Cốc, hồ Tràm, hồ Linh, bàu Bàng, bàu Nhám ngày nay được xây dựng thành những điểm tham quan du lịch, tắm biển nổi tiếng của huyện Xuyên Mộc.
Với diện tích 11.293ha, rừng Bình Châu-Phước Bửu có thảm thực vật nguyên sinh vô cùng phong phú, gồm 113 họ, 408 chi, 661 loài, trong đó có nhiều loài rất quý hiếm. Động vật cũng rất đa dạng, có 70 họ, 29 bộ, 178 loài, trong đó 96 loài chim, 33 loài bò sát…
Giữa ngút ngàn rừng nguyên sinh nổi lên một bàu nước nóng với hơn 70 điểm phun nước lộ thiên. Vùng có mạch nước nóng hoạt động rộng chừng 1km2, tạo thành những cái hồ nước sôi lớn nhỏ. Vùng hồ rộng nhất là khoảng 100m² với độ sâu hơn 1m. Đây là điểm nóng nhất, nước lúc nào cũng sủi tăm, bốc hơi tạo thành một nồi xông hơi thiên nhiên khổng lồ. Nhiệt độ mặt nước khoảng 64ºC, đáy nước là 84ºC. Những chỗ nông, nước chỉ nóng khoảng trên 40ºC, có thể ngâm chân tay để chữa bệnh. điều hấp dẫn, thú vị là tại khu vực nước nóng này cây cỏ vẫn xanh tươi sống cùng năm tháng tạo nên vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên.
Đền Dinh Cô
Theo truyền thuyết kể rằng: cách đây 200 năm có một cô gái trẻ tên Lê Thị Hồng (tục danh là Thị Cách) quê ở Phan Rang trên đường đi qua đây thì thuyền gặp giông bão. Cô bị rớt xuống biển tử nạn, xác trôi dạt vào Hòn Hang. Nhân dân vùng này đã chôn cất cô trên đồi Cô Sơn và lập đền thờ gần biển. Từ đó cô luôn hiển linh, mộng báo điềm lành, diệt trừ dịch bệnh nên vào năm 1930 ng¬ư dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn x¬ưng cô là Long Hải Thần Nữ.
Lúc đầu Dinh Cô chỉ là một ngôi miếu nhỏ đơn sơ. Năm 1930 Dinh Cô được xây dựng khá khang trang và đến năm 1987 thì được xây dựng lại như hiện nay sau khi bị hỏa hoạn.
Dinh Cô có diện tích trên 1.000m2. Cổng Tam quan vào Dinh Cô nằm dưới chân mũi Thùy Vân, đắp nổi “Long hổ hội”, phía trên có “Lưỡng long chầu nguyệt” và song phụng chầu. Lối lên điện Cô là 37 bậc tam cấp.
Chính điện Dinh Cô bài trí 7 bàn thờ. Ngay trung tâm chánh điện là bàn thờ Bà Cô. Nổi bật với bức tượng Bà Cô cao hơn 0,5m, mặc áo choàng đỏ, viền kim tuyến lấp lánh, đội mũ gắn ngọc. Phía sau cạnh bàn thờ Bà Cô là bàn thờ Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu (Nhị vị Công tử, tức là Cậu Tài, Cậu Quý), Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Pháp Nương Nương (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện), Ông Địa, Thần Tài.
Ngoài chính điện, ngư dân còn lập bàn thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Chúa Ngọc Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Chư vị, Bà Mẹ Sanh, Chủ tịch Hồ Chí Minh và miếu thờ Hỏa Tinh Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân, Quan Thế Âm Bồ Tát.
Liên quan đến Dinh Cô là Mộ Cô, nằm trên đồi Cô Sơn, cách Dinh Cô chừng 1km. Mộ Cô là một nơi khang trang đẹp đẽ, thu hút nhiều người đến thăm viếng, chiêm bái, đặc biệt là trong dịp diễn ra lễ Nghinh Cô.
Chùa Quan Thế Âm Bồ Tát
Pho tượng cao 16m làm bằng xi măng cốt thép sắt theo hình tượng một phụ nữ hiền hòa, đức độ, mặt hướng ra biển, tay cầm bình Cam Lồ, đứng trên tòa sen. đây là một pho tượng đẹp và cũng là điểm tham quan của khách du lịch ở Vũng Tàu.
Bãi Trước
Dọc theo bãi biển có trồng nhiều dừa, dương liễu và bàng. Những hàng cây này che mát bãi cát gần biển, dưới tán cây có nhiều hàng quán xinh xắn. Các khách sạn lớn đều tập trung trên bãi biển này.
Bãi Sau
Bãi Sau còn được gọi là bãi Thùy Vân. Trước mặt là biển Đông, bãi Sau nằm tựa lưng vào những đồi cát trắng và rừng phi lao ngút ngàn. Chỉ cần một luồng gió nhẹ, những cành lá phi lao nhỏ li ti lại cùng reo lên bản nhạc lạ kì. Dưới rừng phi lao thấp thoáng những căn nhà nghỉ bằng gỗ, được thiết kế theo kiểu nhà rông Tây Nguyên với đầy đủ tiện nghi, vừa hiện đại, vừa dân dã.
Mặt biển bãi Sau phẳng lặng vào mùa gió nam nhưng lại sóng to, gió lạnh vào mùa gió bắc. Với không khí trong lành, thoáng mát, cảnh đẹp hữu tình, bãi Sau sẽ tạo nên cảm giác thoải mái cho du khách sau những ngày làm việc mệt nhọc.
Bãi tắm Long Hải
Cảnh thiên nhiên ở đây thật thơ mộng. Bãi cát vàng chạy dài, yên tĩnh dành cho du khách yêu biển nhưng không thích ồn ào. Nối liền với bãi Long Hải là đèo Nước Ngọt. Nơi đây núi đá vươn ra biển thách thức cùng với sóng tạo nên phong cảnh vừa nên thơ vừa hùng vĩ.
Phía bên kia đèo Nước Ngọt là rừng hoa anh đào. Mỗi khi xuân về, từ trên đèo Nước Ngọt nhìn xuống du khách sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước màu tím trắng của anh đào, màu xanh của rừng và biển Long Hải.
Bãi Vọng Nguyệt
Vọng Nguyệt có nghĩa là đón trăng. Những đêm vào mùa trăng mọc, hay lúc hoàng hôn, biển ở đây sáng rực như được dát một lớp bạc óng ánh. Bên tiếng sóng rì rào, trước mặt biển sáng bạc mênh mông, du khách sẽ có cảm giác cái mênh mông bao la của trời mây sóng nước, của vũ trụ vô cùng, vô tận, lâng lâng bay bổng trong tâm hồn.
Nước biển ở đây rất trong và sạch. Bờ biển ít thoải, sâu hơn các bãi tắm khác ở Vũng Tàu, phù hợp với những người thích cảm giác mạnh từ những ngọn sóng dồn dập. Không ồn ào, náo nhiệt như ở bãi Trước. Không thoáng đãng, dữ dội như ở bãi Sau. Bãi Vọng Nguyệt không dài nhưng đủ để đi vào tiềm thức của người dân Vũng Tàu qua bao thế hệ bởi sự nên thơ, kỳ bí. Nhất là khi đứng từ tượng Chúa Kitô trên đỉnh núi Tao Phùng nhìn xuống, du khách sẽ có cảm giác biển ở đây xanh hơn những nơi khác, lộng gió và mát mẻ lạ thường.
Bãi Dâu
Bãi Dâu là một bãi biển kín gió với nhiều ghềnh đá kỳ thú, thơ mộng. Hai đầu bãi có nhiều mỏm đá lớn nhô ra ngoài biển, sau lưng bãi là địa hình lòng chảo được cây cối um tùm bao bọc tựa vào triền núi Lớn.
Chân núi Lớn ở bãi Dâu dốc đứng và ăn ra sát biển. Giữa màu xanh thẳm của biển và cây rừng nổi bật tượng đức mẹ Maria cao gần 30m và những tòa nhà sáng trắng.
Bãi Dâu là bãi biển đẹp, yên bình và dường như tách hẳn với không khí ồn ào, náo nhiệt của trung tâm thành phố Vũng Tàu.
Bãi Dứa
Cũng có thể do mùi hương đó đã quyến rũ bước chân du khách và các lãng tử không thể rời xa nên bãi Dứa còn có tên gọi là bãi Lãng Du.
Bãi Dứa là một trong những bãi biển đẹp và thu hút nhiều du khách của Vũng Tàu. Cái đẹp ở đây không ồn ào tấp nập mà là một vẻ đẹp mộng mơ, thầm kín. Biển len lỏi trong các hõm núi, ghềnh đá, tạo nên các vũng biển nhỏ ôm ấp những mạch nước ngầm trong suốt, thoang thoảng mùi thơm đồng nội.
Phía trên triền núi bãi Dứa, dọc theo đại lộ Hạ Long là các nhà nghỉ, khách sạn theo kiểu biệt thự đầy đủ tiện nghi, những ngôi chùa, miếu với những khu cây cảnh đầy vẻ u tịch, thần bí. Nghỉ ngơi, du ngoạn nơi đây sẽ làm tâm hồn du khách nhẹ nhàng, thoải mái sau những ngày làm việc căng thẳng.
Côn Đảo
Du khách có thể đi bằng máy bay trực thăng hoặc bằng tàu biển để ra Côn Ðảo.
Từ giữa thế kỷ 19 đến năm 1975, Côn Ðảo bị biến thành một nhà tù khổng lồ, giam giữ hàng trăm nghìn người yêu nước Việt Nam. Tại đây, hơn 22.000 người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Các khu lao, chuồng cọp, chuồng bò, hầm xay lúa, bến Ðầm, Cầu Tầu, nghĩa trang Hàng Dương… mãi mãi còn đó, thể hiện tinh thần anh dũng, ý chí kiên cường của con người Việt Nam. Côn Ðảo là một chứng tích hùng hồn, tố cáo chế độ độc ác, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, thực dân đối với phong trào yêu nước của dân tộc ta.
Chúng ta đến thăm Côn Ðảo, không chỉ đến thăm chứng tích “địa ngục trần gian” của thực dân đế quốc mà còn là đến với những hòn đảo đẹp luôn rực rỡ sắc biển, màu trời, những hòn đảo xanh tươi của rừng núi, của lúa, của tiêu, của dừa và của các loài thú quý hiếm…
Những địa danh trên Côn Ðảo gắn liền với tài nguyên thiên nhiên phong phú của nơi đây. Ðảo lớn nhất là Côn Sơn với trung tâm đảo là Côn Lôn. Hòn Cau cách Côn Lôn 8km, rộng 1,8 km² là nơi có nhiều cau rừng quả to gần như quả trứng gà, hạt đỏ như son. Hòn Tre Lớn, Hòn Tre Nhỏ có rừng tre dầy, thân trắng và lớn như thân cây vầu, cây bương. Hòn Trai có nhiều trai ngọc quý. Hòn Trứng là nơi cư ngụ của nhiều loài chim biển. Hòn Bà cách Côn Lôn vài trăm mét có đỉnh núi cao 321m, trên có tảng đá to hình một người phụ nữ. Hòn Bảy Cạnh cách Côn Lôn 7km có ngọn Hải Đăng xây năm 1884, tầu thuyền trên biển ở xa trên 70km còn nhìn thấy.
Nằm trong vùng khí hậu á xích đạo – hải dương nóng ẩm, nhiều nắng gió, Côn Ðảo có hệ sinh thái hết sức phong phú và đa dạng. Rừng Côn Ðảo xanh tốt um tùm với nhiều loại cây gỗ quý như bời lời, lát hoa, sao đen, cẩm thi, thiên niên kiện, săng đào, dầu lá bóng… Ðộng vật ở Côn Ðảo cũng có nhiều loài như chồn, sóc, kỳ đà, khỉ, hươu, nai, gà rừng…, đặc biệt có sóc mun toàn thân đen tuyền không thấy ở nơi nào khác trên đất nước ta. Ở đây có các loài chim quý hiếm như: chim điêu mặt xanh, én biển…
Vùng biển Côn Ðảo có nhiều loài hải sản quý, có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, cá hàng, cá gióng, cá mập, cá heo, cá nhám, hải sâm, đồi mồi, vích…
Cùng với việc khai thác thế mạnh về tài nguyên rừng, biển của Côn Ðảo, người dân nơi đây đang phát triển việc trồng và chế biến những nông sản có giá trị hàng hoá cao như hồ tiêu, dừa, cây thuốc… Và cũng chính những mặt hàng có giá trị cao về nông, lâm, ngư nghiệp của Côn Ðảo đã góp phần làm nên sự nổi tiếng của vùng đảo giầu đẹp này.
Côn Ðảo cũng đang phát huy thế mạnh du lịch của mình. Trên đảo Côn Sơn có sân bay Cỏ Ống là cầu nối quần đảo với đất liền, rất thích hợp cho sự đưa đón khách du lịch. Thị trấn có rất nhiều cây bàng nên vào những ngày nắng nóng vẫn rợp bóng xanh mát. Các bãi tắm ở Côn Ðảo còn nhiều nét hoang sơ với môi trường trong lành, trong đó có những bãi rất đẹp như Hàng Dương, Phi Yến, Ðầm Trầu… bằng phẳng, sạch sẽ, nước trong xanh, có thể nhìn rõ đáy cát.
Không thể không nhắc đến một sự kiện lịch sử thú vị là năm 1284 nhà thám hiểm Marco Polo đã ghé qua Côn Ðảo.
Côn Ðảo là địa danh du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Miếu An Sơn
Ngôi miếu này rất linh thiêng đối với những người dân trên đảo và nó gắn liền với một câu chuyện bi thương của người phụ nữ tài sắc, giàu lòng yêu nước. Năm 1783, sau khi thua quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh mang theo vợ, con và khoảng 100 gia đình thuộc hạ chạy ra đảo Côn Sơn. Cùng với những người dân chài đang sinh sống ở Côn Sơn, Nguyễn Ánh đã lập nên 3 làng là: An Hải, An Hội và Cỏ Ống. Để đánh lại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh dự định gửi con cả là Hoàng tử Cảnh đi theo cố đạo Pháp (Bá Ða Lộc) sang Pháp cầu viện. Bà Phi Yến (Lê Thị Răm) là vợ thứ của Nguyễn Ánh đã can ngăn chồng, đừng làm việc “cõng rắn cắn gà nhà” để người đời chê trách.
Nguyễn Ánh không những không nghe lời khuyên của bà mà còn tức giận, nghi bà thông đồng với quân Tây Sơn, nên định giết bà. Nhờ quân thần can xin, Nguyễn Ánh đã tống giam bà vào một hang đá trên đảo Côn Lôn nhỏ. Khi quân Tây Sơn đánh ra đảo, Nguyễn Ánh bỏ chạy ra biển. Hoàng tử Cải (còn gọi là Hoàng tử Hội An), con bà Phi Yến lúc đó mới 4 tuổi đòi mẹ đi cùng. Trong cơn tức giận Nguyễn Ánh đã ném con xuống biển. Xác Hoàng tử Cải đã trôi vào bãi biển Cỏ Ống. Dân làng đã chôn cất Hoàng tử. Bà Phi Yến, theo truyền thuyết được một con vượn và một con hổ cứu ra khỏi hang và về sống với dân làng Cỏ Ống để trông nom mộ Hoàng tử Cải. Một lần, sau khi bị một kẻ xấu xúc phạm bà đã tự tử để thủ tiết với chồng.
Nhân dân trên đảo vô cùng thương tiếc bà và đã lập nên ngôi miếu to, đẹp để thờ bà. Năm 1861, Pháp sau khi chiếm đảo đã quyết định di toàn bộ dân vào đất liền để xây nhà tù. Ngôi miếu bị đổ nát dần. Năm 1958, nhân dân trên đảo đã xây dựng lại ngôi miếu trên nền cũ.
Chùa Niết Bàn Tịnh Xá
Chùa “Niết Bàn Tịnh Xá” còn gọi là chùa “Phật Nằm” được xây dựng trên sườn núi Nhỏ, hướng mặt ra biển.
Chùa được khởi công xây dựng từ năm 1969 và khánh thành vào năm 1974 bằng tiền quyên góp của đồng bào phật tử. Thượng tọa Thích Thiện Huệ đại diện đứng ra lo toan việc xây dựng. Đây là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Vũng Tàu với những đường nét kiến trúc hiện đại.
Ở phía trước chùa là một cột cờ cao 21m, được làm thành 42 bậc biểu tượng cho 42 trang kinh phật đầu tiên được lưu truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ 2. Cổng chùa có 4 chữ “NIẾT BÀN TỊNH XÁ” tức là nơi thanh cao nhất của đạo Phật.
Hai bên cổng chùa là 2 pho tượng “Thần Thiện” và “Thần Ác”.
Khu điện thờ chính của chùa được bày trí thành một vườn hoa Sala theo cảnh Đức Phật nhập Niết Bàn. Nổi bật trong khu Chánh điện này là bức tượng “Phật Nằm”, dài 12m tượng trưng cho “Thập Nhị Nhân Duyên” và được đặt lên bệ thờ cao 2,5m. Mặt ngoài của bệ thờ có đắp hình tượng các đồ đệ của Phật Thích Ca đang chứng kiến lúc Ngài nhập điện.
Phía trước chánh điện có một chiếc lư đồng với hình tượng bốn con vật Long, Lân, Qui, Phụng gọi chung là “Tứ Linh”. Chiếc lư này là kết quả sau hơn hai năm lao động nghệ thuật miệt mài của một nghệ nhân ở tỉnh Bến Tre và đem tặng cho chùa năm 1971. Song song với lư ở hai bên là hai toà tháp cao khoảng 5m. Toà bên trái có tượng Phật A Di Đà, toà bên phải có tượng Phật Dược Sư.
Hậu điện dùng làm nơi thờ Phật Thích Ca và các vị tổ đã có công truyền bá Đạo
Phật. Sau tượng Phật Thích Ca có treo một bức tranh vẽ hình “Đạt Ma Sư Tổ” là vị cao tăng đầu tiên truyền bá giáo lý nhà Phật Việt Nam. Pho tượng nghìn tay nghìn mắt biểu tượng thần thông phi thường của nhà Phật.
Tầng hai có chiếc thuyền rồng còn gọi là thuyền Bát Nhã dài 12m. Đó là thuyền Bát Nhã sẽ cứu vớt mọi người ra khỏi khổ ải rồi đưa đến chốn vĩnh cửu bất diệt.
Phía sau thuyền Bát Nhã là điện thờ Phật Quan Âm Bồ Tát. Tượng Phật được thể hiện theo hình dáng một phụ nữ hiền hoà đức độ, tay đổ bình nước cam lồ xuống để chữa bệnh cho dân chúng và làm cho cõi trần thêm sạch.
Thích ca Phật Đài
Là ngôi chùa lớn ở Tp. Vũng Tàu, được dựng năm 1941, rộng khoảng 6ha nằm trên sườn núi Lớn, cách trung tâm thành phố khoảng 3km.
Ðáng chú ý ở ngôi chùa này là ngọn tháp Bát Giác cao 19m và tượng Phật Thích Ca ngồi thiền trên toà sen. Toàn bộ tượng cao 10,2m, đường kính khoảng 6m. Tượng và tháp đều màu trắng và được dựng ở lưng chừng núi cao, đứng từ xa cũng chiêm ngưỡng được.
Vũng Tàu
Thành phố Vũng Tàu có ba mặt giáp biển, nhiệt độ trung bình 27°C, thấp hơn so với các tỉnh phía nam. Vũng Tàu có 20km bờ biển với nhiều dáng vẻ, những bãi cát phẳng phiu mịn màng, những bờ đá dựng đứng và những hàng cây xanh tốt quanh năm, tiếp liền với vịnh, biển hình cánh cung, mặt nước khá phẳng lặng, tạo nên những bãi tắm nổi tiếng.
Vũng Tàu có 7 bãi tắm sát thành phố, mỗi bãi có vẻ đẹp riêng. Bãi Tầm Dương (còn gọi là Bãi Trước) ở trung tâm thành phố, giống như cái vịnh nhỏ ở giữa núi, bãi ít có sóng to. Trên bờ trồng nhiều dừa, dương liễu, bàng, tạo ra nhiều bóng mát và có nhiều biệt thự đẹp. Nổi tiếng nhất và hàng ngày có nhiều du khách đến tắm là bãi Phù Vân (còn gọi là Bãi Sau). Bãi nằm ở đông nam thành phố chạy dài 8km. Bãi rộng đẹp, sạch sẽ, bốn mùa du khách tấp nập đến đây.
Qua bãi Sau, theo con đường vòng phía ngoài núi Nhỏ gặp bãi Vọng Nguyệt (hay Ô Quắn) kề bên núi Nghinh Phong, nước biển rất sạch, ở đây luôn có sóng to.
Bãi Hàng Bàng (hay bãi Lãng Du) là bãi tắm nhỏ, nằm gọn giữa những mỏm đá ở chân núi Nhỏ.
Bãi Dứa cách Bãi Sau khoảng 1km. Bãi biển ở đây yên tĩnh. Ði theo đường vòng quanh núi Lớn, qua nhiều biệt thự với những kiểu dáng khác nhau sẽ đến bãi Dâu – nằm dưới chân núi Lớn. Bãi Dâu thật nhỏ nhắn và tĩnh lặng.
Núi Minh Đạm
Từ thị xã Bà Rịa, đi về hướng biển Long Hải chừng 30km, du khách sẽ gặp dãy núi có tên Minh. Núi Minh Đạm cao trung bình khoảng 200m (ngày xưa núi có tên là Châu Long và Châu Viên).
Năm 1948, để nhớ ơn hai vị Bí thư và Phó bí thư huyện Long Điền là Bùi Công Minh và Mạc Thanh Ðạm đã anh dũng hy sinh dưới chân núi, nên người dân đã đặt tên núi là Minh Ðạm. Minh Đạm còn là tên gọi căn cứ kháng chiến của quân và dân Bà Rịa – Vũng Tàu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Núi Minh Ðạm có rừng cây um tùm xanh tươi. Trên núi có nhiều hang đá là nơi ăn ở, sinh hoạt, làm việc an toàn cho cán bộ, bộ đội. Mỗi hang đá mang tên của đơn vị đóng quân như: hang Huyện uỷ, hang Quân y, hang Quân giới…
Từ chân núi, một con đường trải nhựa ngoằn ngoèo đưa du khách lên tận đỉnh núi. Du khách sẽ ngỡ ngàng khi ở khoảng hai phần ba đoạn đường đèo, toàn cảnh biển Long Hải bao la, với khung cảnh biển một bên, núi đồi một bên thật hữu tình, thơ mộng hiện ra trong tầm mắt. Phía dưới là khu du lịch Thuỳ Dương và con đuờng nhựa uốn lượn dưới chân núi. Ôm lấy biển là rừng hoa anh đào đỏ thắm, tuyệt đẹp.
Nhiều người thích chinh phục đỉnh núi bằng cách đi bộ, để được len lỏi dưới những tán cây, gộp đá, nghe tiếng chim kêu, tiếng suối chảy róc rách. Cái mệt nhọc dần tan biến sau khi bạn được rửa mặt, ngâm chân vào nước suối mát lạnh, tận hưởng bầu không khí trong lành của núi rừng. Năm 1993, Khu căn cứ Minh Ðạm được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử cách mạng. Minh Ðạm hôm nay đã trở thành điểm du lịch khá lý tưởng cho nhiều loại hình du lịch: leo núi, dã ngoại sinh thái và đặc biệt là nơi tìm hiểu lịch sử cách mạng, giáo dục truyền thống cho các thế hệ học sinh, sinh viên…
Suối khoáng nóng Bình Châu
Kỳ diệu thay không biết tự bao giờ tại khu rừng tràm lớn, một hồ nước sôi khổng lồ cùng với bùn khoáng nóng với 70 điểm phun lộ thiên có nhiệt độ từ 37ºC đến 80ºC cứ tuôn trào vô tận cho đến ngày hôm nay. Suối khoáng nóng Bình Châu đã được các nhà khoa học công nhận bởi nguồn nước rất có giá trị trong việc chữa trị phục hồi sức khoẻ.
Các khu vực dành cho việc nghỉ dưỡng chữa bệnh bằng suối khoáng nóng đã hình thành như khu hồ ngâm Suối Mơ, Hà Nội- Huế-Sài Gòn, khu giếng trời dành luộc trứng bằng nước khoáng nóng, cụm tắm bùn khoáng… Tất cả đều nằm ẩn mình, yên tĩnh trong rừng cây xanh. Ngoài ra còn những cụm công trình khép kín trong dịch vụ giải trí thể thao dành cho du khách nghỉ cuối tuần như sân tập golf, bóng chuyền, hồ bơi và cả khu vườn Trăng với sân khấu 1.000 chỗ ngồi…
Đi trên những dãy hành lang bằng gỗ bắc qua những điểm suối chảy trải dài quanh co chừng 1km, du khách sẽ thấy thật thú vị khi nhìn nước từ trong lòng đất tuôn ra, sôi sủi thành bọt và ngâm chân ở những con suối có nhiệt độ 40ºC. Còn nếu muốn thưởng thức trứng gà luộc hồng đào, bạn hãy đi tới giếng nước ở nhiệt độ 80ºC, cho trứng vào giỏ rồi thả xuống ngâm chừng 10 phút sau vớt lên là dùng được.
Vào những buổi bình minh, nơi đây thật kỳ ảo. Cảnh sắc xung quanh như được phủ một làn sương mỏng từ hơi nước bốc lên. Du khách có thể thả bộ để hít thở bầu không khí tinh khiết, trong lành phảng phất mùi hương thơm cây cỏ. Từ phía xa vẳng tiếng chim rừng líu lo đánh thức cả khu du lịch thức dậy đón một ngày mới bắt đầu. Trong nắng ban mai, những đàn bướm đầy màu sắc bay lượn trên những thảm cỏ tạo nên một khung cảnh rất yên bình. Để thưởng thức hết những hương vị của thiên nhiên Bình Châu, du khách hãy đi dạo hoặc đi bằng xe bò đến thăm suối Bang cách đó 2km về phía đông hay tới thăm vườn thú có khá nhiều loại: gấu, khỉ, chồn, trăn, tắc kè, nhím, đại bàng…
Cạnh khu rừng có một số gia đình người Châu Ro sinh sống, du khách có thể đi thăm làng và nghe các cụ già kể lại truyền thuyết sự tích đầm nước sôi. Câu chuyện kể mối tình bi thương của cặp vợ chồng trẻ, vì một chút nông nổi mà phải chịu cô đơn mãi mãi.
Khu du lịch nghỉ dưỡng Suối khoáng nóng Bình Châu đã được tổ chức Du lịch thế giới (WTO) bình chọn là một trong hai khu du lịch sinh thái bền vững nhất của Việt Nam.Vào những buổi bình minh, nơi đây thật kỳ ảo. Cảnh sắc xung quanh như được phủ một làn sương mỏng từ hơi nước bốc lên. Du khách có thể thả bộ để hít thở bầu không khí tinh khiết, trong lành phảng phất mùi hương thơm cây cỏ. Từ phía xa vẳng tiếng chim rừng líu lo đánh thức cả khu du lịch thức dậy đón một ngày mới bắt đầu. Trong nắng ban mai, những đàn bướm đầy màu sắc bay lượn trên những thảm cỏ tạo nên một khung cảnh rất yên bình. Để thưởng thức hết những hương vị của thiên nhiên Bình Châu, du khách hãy đi dạo hoặc đi bằng xe bò đến thăm suối Bang cách đó 2km về phía đông hay tới thăm vườn thú có khá nhiều loại: gấu, khỉ, chồn, trăn, tắc kè, nhím, đại bàng…
Cạnh khu rừng có một số gia đình người Châu Ro sinh sống, du khách có thể đi thăm làng và nghe các cụ già kể lại truyền thuyết sự tích đầm nước sôi. Câu chuyện kể mối tình bi thương của cặp vợ chồng trẻ, vì một chút nông nổi mà phải chịu cô đơn mãi mãi.
Khu du lịch nghỉ dưỡng Suối khoáng nóng Bình Châu đã được tổ chức Du lịch thế giới (WTO) bình chọn là một trong hai khu du lịch sinh thái bền vững nhất của Việt Nam.
Nguồn sưu tầm Internet